Quá trình thay đổi phiên hiệu Sư_đoàn_7_Bộ_binh_Quân_lực_Việt_Nam_Cộng_hòa

Sư đoàn 31 là hậu thân của Liên đoàn Lưu động số 31 trong Quân đội Liên Hiệp Pháp, đồn trú tại Hải Dương do Trung tá Nguyễn Quang Hoành[4] làm Chỉ huy trưởng đầu tiên, kế đến là Trung tá Tôn Thất Đính và sau cùng là Trung tá Nguyễn Hữu Có.

Sau Hiệp định đình chiến Genève 20 tháng 7 năm 1954, Liên đoàn 31 di chuyển vào Nam, đồn trú tại Tam Kỳ, Quảng Nam cho đến khi giải tán vào ngày 15 tháng 12 năm 1954 để dùng làm nòng cốt thành lập Sư đoàn 31 Bộ binh.

Mùa hè năm 1955, Sư đoàn di chuyển từ Quảng Nam vào miền Nam, đồn trú tại Biên Hòa. Tháng 8, được cải danh thành đơn vị Dã chiến. Sau vài tuần lễ lại thay đổi phiên hiệu là Sư đoàn Dã chiến số 11. Tháng 10 cùng năm cải danh thành Sư đoàn Dã chiến số 4.[5] Đến đầu tháng 12 năm 1958, Sư đoàn được cải danh lần cuối cùng thành Sư đoàn 7 Bộ binh.

Ngày 20 tháng 5 năm 1961, Sư đoàn di chuyển về miền tây Nam phần, trú đóng tại Thị xã Mỹ Tho. Về sau, Bộ tư lệnh Sư đoàn chuyển sang căn cứ Đồng Tâm và cố định ở đây đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Địa bàn hoạt động và trách nhiệm của Sư đoàn gồm các tỉnh: Định Tường, Gò Công, Long An, Kiến Tường, Kiến Phong và Kiến Hòa thuộc Khu chiến thuật 43.

Qua quá trình được tôi luyện trong chiến trường, Sư đoàn đã trở thành một đơn vị thiện chiến và không thua kém các đơn vị bạn, đồng thời đã cùng các đơn vị bạn bảo an lãnh thổ và làm tròn trách nhiệm đối với khu vực của mình cho tới ngày cuối cùng trước khi buông vũ khí theo lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.